Phải xác định cẩn thận liều tối ưu hàng ngày của Calcitriol cho từng bệnh nhân theo canxi huyết. Việc điều trị bằng Calcitriol phải luôn bắt đầu ở liều khuyến cáo thấp nhất có thể được và chỉ tăng khi có sự kiểm soát chặt chẽ canxi huyết. Ngay khi đã tìm được liều tối ưu của Calcitriol, phải kiểm tra canxi huyết mỗi tháng. Khi lấy máu để định lượng canxi phải được thực hiện không có dây thắt garrot. Ngay khi nồng độ canxi trong huyết thanh vượt quá 1mg/ 100ml (hay 0,25mmol/ l) giá trị bình thường (9-11mg/ 100 ml, hay 2,25 - 2,75mmol/ l), cần phải giảm liều hoặc tạm ngừng dùng Calcitriol cho đến khi canxi huyết trở về bình thường. Trong thời gian bệnh nhân bị tăng canxi huyết, phải kiểm tra nồng độ canxi và phốt pho trong huyết thanh hàng ngày. Khi các giá trị trở về bình thường, có thể dùng trở lại Calcitriol với liều thấp hơn 0,25mcg so với liều trước đó.
Ðể Calcitriol có hiệu lực tối ưu, trong giai đoạn đầu bệnh nhân phải được bổ sung một lượng canxi đầy đủ nhưng không được nhiều quá. Ở người lớn, liều canxi hàng ngày (có nguồn gốc từ thức ăn và thuốc) vào khoảng 800mg, không được vượt quá 1000mg.
Do có cải thiện sự hấp thu canxi ở ống tiêu hóa, có thể giảm lượng canxi trong thức ăn và thức uống ở những bệnh nhân được điều trị bằng Calcitriol. Bệnh nhân có khuynh hướng tăng canxi huyết chỉ cần dùng liều thấp, thậm chí không cần bổ sung canxi.
Loãng xương sau mãn kinh: Liều khuyến cáo là 0,25mcg x 2 lần/ ngày, uống nguyên viên thuốc, không nhai. Ở bệnh nhân được cung cấp < 500mg calci từ thức ăn, nên kê toa calci thêm. Lượng calci cung cấp hàng ngày không vượt quá 1000mg. Nồng độ calci và créatinine trong huyết thanh phải được kiểm tra vào tuần thứ 4, tháng thứ 3 và tháng thứ 6, sau đó mỗi 6 tháng.
Loạn dưỡng xương có nguồn gốc do thận (bệnh nhân phải chạy thận): Liều khởi đầu hàng ngày là 0,25mcg. Ở người có calci huyết bình thường hay hạ calci huyết nhẹ, dùng liều 0,25mcg mỗi 2 ngày là đủ. Nếu các thông số lâm sàng và sinh hóa không tiến triển theo chiều hướng tốt sau khoảng 2 đến 4 tuần, có thể tăng liều hàng ngày thêm 0,25mcg cách khoảng sau 2 đến 4 tuần. Trong giai đoạn này, cần kiểm tra nồng độ calci trong huyết tương ít nhất 2 lần mỗi tuần. Ða số bệnh nhân có đáp ứng tốt với liều 0,5 - 1mcg/ ngày. Có thể cần dùng liều cao nếu có phối hợp với barbiturat hay các thuốc chống động kinh.
Thiểu năng tuyến cận giáp và còi xương: Liều khởi đầu được khuyến cáo là 0,25 mcg/ ngày, uống vào buổi sáng. Nếu các thông số lâm sàng và sinh hóa không tiến triển theo chiều hướng tốt, có thể tăng liều hàng ngày thêm 0,25 mcg cách khoảng sau 2-4 tuần. Trong giai đoạn này, cần kiểm tra nồng độ calci trong huyết tương ít nhất 2 lần/ tuần.
Ở bệnh nhân bị thiểu năng tuyến cận giáp, đôi khi ghi nhận có hội chứng kém hấp thu; trong những trường hợp này, dùng liều cao Calcitriol tỏ ra có hiệu quả.
Trẻ sơ sinh và trẻ em: Ðể điều trị cho sơ sinh và trẻ em, có thể dùng Calcitriol dưới dạng dung dịch. Như đối với người lớn, liều tối ưu hàng ngày phải được xác định theo nồng độ calci huyết. Ở trẻ em có tỉ lệ lọc ở cầu thận dưới 25% so với bình thường, nên dùng Calcitriol với mục đích dự phòng. Nếu thể trọng < 20kg, liều Rocatrol là 0,01-0,03mcg/ kg thể trọng/ ngày; nếu thể trọng > 20kg, liều 0,25mcg/ ngày.
Ðể điều trị còi xương có nguồn gốc do thận, liều khởi đầu được khuyến cáo trong 2 năm tuổi đầu là 0,01-0,1mcg/ kg thể trọng, không được vượt quá 2mcg/ ngày.
Trường hợp còi xương không đáp ứng với vitamin D, có thể cần dùng đến liều cao hơn, được xác định tùy theo nguyên nhân gây bệnh.